TRUNG TÂM LƯU TRỮ QUỐC GIA 1

  • Tiếng Việt
  • Français
  • English

Điều ít biết về Căng Bắc Mê

10:48 18/12/2018

Căng Bắc Mê vốn dĩ là một trại lính Khố xanh – nơi ở và đóng quân của quân đội Pháp và bộ máy tay sai cho đến tận năm 1940 khi mà chính quyền Pháp tiến hành thiết lập một loạt trại an trí gọi là “căng” đặc biệt cho những người lao động (camp spécial des travailleus) với mục đích là để giam giữ những “phần tử nguy hiểm”- những cựu tù chính trị đã được tha bổng trong thời kỳ trước. Nhưng hiện nay, việc trại lính-tiền thân của Căng Bắc Mê được xây dựng chính xác khi nào, được chuyển đổi thành Căng Bắc Mê ra sao đang là vấn đề được nhiều người quan tâm. Vì vậy, chúng tôi xin trích dẫn nội dung một số văn bản liên quan đến việc xây trại lính Khố xanh của Pháp và thời gian, lý do của việc cải dụng trại lính Khố xanh thành Căng Bắc Mê.

3548201758_7b344704e3_z

Dấu tích còn lại Căng Bắc Mê, nguồn: Hà Kin

Hà Giang – mảnh đất địa đầu của dải đất hình chữ S, không chỉ đẹp bởi phong cảnh hùng vĩ, những con đường uốn lượn quanh co, bất tận, mà còn cuốn hút bởi sắc hoa và bởi sự rêu phong cổ kính của các di tích trên mảnh đất này.

Bên cạnh những địa danh quen thuộc như cao nguyên đá Đồng Văn, dinh vua Mèo, cột cờ Lũng Cú, Mã Pì Leng,…thì di tích Căng Bắc Mê bên dòng sông Gâm xanh ngắt cũng là một điểm đến không thể bỏ qua của du khách khi đặt chân đến Hà Giang.

Căng Bắc Mê được xây dựng trên sườn núi Rồng thuộc thôn Đồn Điền, xã Yên Cường, huyện Bắc Mê, tỉnh Hà Giang, lưng tựa vào đỉnh núi, trước mặt là sông Gâm. Được biết đến là một di tích lịch sử thời kỳ kháng chiến chống Pháp và là nơi giam giữ các đồng chí Cộng sản.  Căng Bắc Mê vốn dĩ là một trại lính Khố xanh được xây dựng từ trước năm 1938. Nhưng hiện nay, việc trại lính-tiền thân của Căng Bắc Mê được xây dựng chính xác khi nào, được chuyển đổi thành Căng Bắc Mê ra sao là vấn đề được nhiều người quan tâm.

Dưới đây, tôi xin trích dẫn nội dung một số văn bản liên quan đến việc xây trại lính Khố xanh của Pháp và thời gian, lý do của việc cải dụng trại lính Khố xanh thành Căng Bắc Mê.

Vào những năm đầu của thế kỷ XX, cùng với việc thiết lập bộ máy cai trị hà khắc ở vùng Đông Bắc, thực dân Pháp đã cho xây dựng thêm đồn bốt, trại lính ở khắp nơi trong đó có trại lính Khố xanh ở Bắc Mê, Hà Giang.

Ngày 15 tháng 02 năm 1909, Tiểu đoàn trưởng – Tư lệnh Đạo quan binh 3 (Hà Giang) đã gửi công văn số 229 tới Thống sứ Bắc Kỳ trình bày về việc cần thiết phải xây trại lính Khố xanh ở Bắc Mê thuộc Đạo quan binh 3 để kiểm soát toàn bộ tuyến giao thông giữa 3 tỉnh Hà Giang, Tuyên Quang và Cao Bằng vì nơi đây có địa thế khá thuận lợi cho việc quan sát, khống chế cả một vùng rộng lớn. (1)

Ban đầu ở trại lính này chỉ có 1 đội lính Khố xanh đóng quân và một số cai đội người địa phương dưới sự chỉ huy của một viên sĩ quan Pháp và trại lính này được sử dụng làm nơi ở và đóng quân đội Pháp và bộ máy tay sai cho đến tận năm 1940.

Ngày 21 tháng 01 năm 1940, Tổng thống Pháp Albert Lebrun đã ban hành Sắc lệnh thực hiện trên toàn cõi Đông Dương việc quản thúc hay trục xuất khỏi nơi cư trú hoặc giam giữ trong các trại tập trung những “phần tử nguy hiểm” cho việc phòng vệ quốc gia và cho an ninh chung, thực chất là để quản thúc các cựu tù chính trị đã được tha bổng trong thời kỳ trước (2)…. Thi hành Sắc lệnh này, Chính quyền thuộc địa ở Việt Nam đã cho mở rộng và xây dựng mới nhiều loại hình nhà tù với số lượng lớn. Ngoài những nhà tù, trại giam đã có từ trước và nổi tiếng tàn bạo như: Hỏa Lò, Sơn La (Bắc Kỳ), Buôn Mê Thuật, Nha Trang, Lao Bảo (Trung Kỳ), Khám Lớn (Nam Kỳ), nhà tù Côn Đảo,…, chính quyền Pháp tiến hành thiết lập một loạt các trại an trí gọi là các “căng” đặc biệt cho những người lao động (camp spécial des travailleurs), trong đó căng Bắc Mê được thành lập theo Nghị định ngày 20 tháng 11 năm 1940 của quyền Thống sứ Bắc Kỳ Rivoal về việc cải dụng trại lính Khố xanh Bắc Mê (Đạo quan binh 3) thành trại giam giữ các phần tử nguy hiểm cho việc phòng vệ quốc gia và an ninh chung (3).

Từ năm 1940 đến năm 1942, thực dân Pháp đã hai lần đưa tù nhân chính trị từ các nhà tù Sơn La, Hỏa Lò, Phú Thọ,… và các tù nhân chính trị trước đây đã được tha bổng nhưng bị quy là “những phần tử nguy hiểm” cho việc phòng vệ và an ninh chung lên đây để giam giữ. Và số lượng tù nhân bị giam giữ ở đây tính đến cuối năm 1942 là 300 người. Trong đó có nhiều đồng chí là Đảng viên Đảng Cộng sản như: Xuân Thủy, Trần Cung (tức Nguyễn Ngọc Cư), Phan Bôi (tức Hoàng Hữu Nam), Nguyên Hồng, Đặng Việt Châu, Lê Giản,… Trong số các chính trị phạm còn số một số đồng chí là nữ như: Nguyễn Thị Thoa, Trần Thị Khánh, Nguyễn Thị Sửu, Lê Thị Sói, Hoàng Vọng Bình, Nguyễn Thị Mỳ,…(4)

Mặc cho gông cùm khổ cực, khí hậu khắc nghiệt nhưng các tù chính trị vẫn tìm cách vận động đấu tranh, đòi cải thiện chế độ sinh hoạt trong Căng, dạy văn hóa, bồi dưỡng cho nhau về tinh thần yêu nước và tư tưởng đấu tranh cách mạng. Cuối năm 1942, lo sợ phong trào cách mạng đang lan rộng ở các tỉnh biên giới và đấu tranh của tù chính trị trong Căng, sợ sự ảnh hưởng của tù nhân đến người dân xung quanh Căng, thực dân Pháp đã giải tán Căng Bắc Mê.

Qua dòng chảy của thời gian, di tích Căng Bắc Mê hiện không còn nguyên vẹn như xưa, nơi đây chỉ còn lưu lại những dấu tích nhuốm đầy rêu phong của móng và hàng gạch xưa- bằng chứng duy nhất còn lại ghi dấu tội ác của thực dân Pháp, ý chí cách mạng kiên cường, lạc quan, sức chiến đấu bền bỉ của những người Cộng sản trong nhà tù đế quốc.

Với giá trị lịch sử to lớn và ý nghĩa quan trọng trong việc giáo dục truyền thống cho thế hệ trẻ, năm 1992, Căng Bắc Mê đã được Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ Văn hóa- Thể thao và Du lịch) cấp bằng công nhận Di tích lịch sử quốc gia theo Quyết định số 97-QĐ, ngày 21 tháng 01 năm 1992.

Tài liệu tham khảo:

1. Phông Phủ Thống sứ Bắc Kỳ, hồ sơ 55018, tờ số 02

2. Công báo Đông Dương, J1210, tờ số 1033-1034

3. Công báo Đông Dương, J1211, tờ số 3154

4. Phông Đốc lí Hà Nội, hồ sơ 3690

Nguyễn Thu Hằng

Liên Hệ Phòng Đọc

905243 truy cập

112 trực tuyến

Liên kết Website